Ngôn ngữ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM QUỲNH TRANG
TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ĐẾN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM QUỲNH TRANG
TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ĐẾN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
MÃ SỐ:62 22 03 08
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN CHÍ HIẾU
HÀ NỘI - 2020
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Giai cấp công nhân Việt Nam - giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng [26; tr.43 -44]. Ngay từ khi ra đời cho đến nay, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn luôn mang trong mình sứ mệnh lịch sử quan trọng đó.
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay còn gọi là cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo là một xu thế lớn sẽ tác động sâu sắc và toàn diện đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Sau gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, một nền kinh tế mới, năng động và đang phát triển, cùng với quá trình đó, giai cấp công nhân Việt Nam cũng ngày càng phát triển về số lượng và không ngừng nâng cao về chất lượng. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư này, giai cấp công nhân Việt Nam đang chịu tác động trực tiếp theo cả hai chiều: tích cực và tiêu cực.
Một mặt, cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ thúc đẩy giai cấp công nhân phát triển về mặt chất lượng, làm gia tăng bộ phận công nhân tri thức (công nhân trí thức), tạo nên những chuyển biến mang tính tích cực trong cơ cấu giai cấp công nhân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho giai cấp công nhân. Mặt khác, cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng sẽ có những tác động xấu tới việc làm, thu nhập, đời sống… của một bộ phận không nhỏ giai cấp công nhân, nhất là bộ phận công nhân “cổ xanh”. Đáng lo ngại hơn, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang có những tác động không nhỏ tới ý thức giai cấp, phẩm chất chính trị của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp lãnh đạo (thông qua đội tiền phong) sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Để nhận diện rõ và đầy đủ hơn về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (trên thế giới, cũng như ở Việt Nam), về thời cơ và thách thức của nó đối với vị thế, vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay… đòi hỏi phải có sự quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, những nghiên cứu về tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay còn khá khiêm tốn.
Chính vì vậy, NCS quyết định chọn vấn đề “Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học với mong muốn góp phần luận giải rõ, đầy đủ hơn về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn những tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận án sẽ thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài; từ đó, đánh giá những giá trị và “khoảng trống” của các công trình tổng quan, chỉ ra những nội dung luận án cần nghiên cứu, làm rõ;
- Phân tích một số vấn đề lý luận về tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam;
- Phân tích, làm rõ những biểu hiện tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam và những vấn đề đặt ra;
- Nêu một số quan điểm cơ bản và đề xuất định hướng giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy, tận dụng những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
-Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu: 1- Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến số lượng, cơ cấu của giai cấp công nhân; 2- Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến chất lượng của giai cấp công nhân trên các phương diện: trình độ (học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng làm chủ kiến thức khoa học - công nghệ…) và phẩm chất chính trị (ý thức giai cấp, ý thức giác ngộ về sứ mệnh lịch sử…) của giai cấp công nhân Việt Nam.
- Về thời gian: Nghiên cứu tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam từ năm 2011 (đây là năm mà thuật ngữ công nghiệp 4.0 được nhắc đến lần đầu tiên tại Đức) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về vai trò của lực lượng sản xuất hiện đại trong phát triển kinh tế, xã hội.
Luận án cũng dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về một số chủ trương chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, về chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020. Ngoài ra, luận án cũng kế thừa giá trị của những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng tổng hợp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Coi trọng và kết hợp phương pháp lôgic - lịch sử và phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp như: phân tích, so sánh, thống kê… để nghiên cứu.
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận án
- Phân tích và làm rõ bản chất của cách mạng công nghiệp lần thứ tư và biểu hiện tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam.
- Chỉ ra và phân tích được những vấn đề đặt ra từ những biểu hiện tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam.
- Xác định quan điểm định hướng và đặc biệt, đề xuất được một số giải pháp chủ yếu phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
- Luận án làm rõ những biểu hiện tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam từ góc độ chính trị - xã hội. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dậy bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng và các ngành khoa học xã hội khác nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Một mặt, luận án dự báo và phân tích những tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam, làm cơ sở để Đảng và Nhà nước kịp thời đưa ra được chủ trương, chính sách đúng đắn về phát triển giai cấp công nhân trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Mặt khác, kết quả nghiên cứu của luận án còn góp phần vào cuộc đấu tranh tư tưởng chống lại những luận điệu xuyên tạc cho rằng: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ khiến giai cấp công nhân “bị teo” đi, tan biến đi và không còn sứ mệnh lịch sử nữa; từ đó, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu khoa học của tác giả và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được chia thành 4 chương, 9 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tài liệu ở nước ngoài
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Tác giả Klaus Schwab với cuốn sách “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” được Bộ ngoại giao dịch và hiệu đính, Nxb. Thế giới, H. 2018; Sau cuốn “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ” Klaus Schwab tiếp tục xuất bản cuốn sách với tên gọi “Định hình cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, cuốn sách được Nguyễn Văn – Thành Thép dịch, Nxb Thế giới, H.2019; Deloitte and Global Business Coalition for Education: Preparing tomorrow’s workforce for the Fourth Industrial Revolution, 2018.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân
- “Vị trí vai trò của giai cấp công nhân đương đại” của tác giả Liễu Khả Bạch – Vương Mai – Diêm Xuân Chi, Quỹ xuất bản Khoa học xã hội Trung Quốc, do Nguyễn Ngọc Lân dịch và Nguyễn Thanh hiệu đính.
1.1.3.Những công trình nghiên cứu về tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân
- Alvin Toffler với cuốn sách “Làn sóng thứ ba”, Nxb. Thông tin lý luận, TP. Hồ Chí Minh 1992; Thế giới phẳng của tác giả ThomasL. Friedman đi vào miêu tả quá trình thế giới sẽ bị san “phẳng” bởi xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ; Tác giả Vương Thục Phương, Học viện nhân văn đại học Đông hoa, Trung Quốc với bài viết “Công nghiệp 4.0: Sự trừng phạt hay cứu rỗi của tư bản kỹ thuật đối với con người – Từ góc độ phê phán “Sùng bái hàng hóa” và “Thời gian tự do” của C.Mác” được đăng trên tạp chí Chủ nghĩa C.Mác và hiện thực (Trung Quốc), số 2 – 2016, tr.141 -146.
1.2. Tổng quan tài liệu trong nước
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Kỷ yếu hội thảo “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam” do Viện Hàn lâm Khoa học và xã hội Việt Nam, Ban Kinh tế Trung ương cùng với tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam biên soạn năm 2016; Tháng 11 năm 2017 Ban Kinh tế Trung ương giao cho đồng chí TSKH. Nguyễn Văn Bình chủ biên cuốn sách “Việt Nam với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” sách tham khảo; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh với hội thảo “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thời cơ và thách thức đối với Việt Nam"; Trong cuốn sách “Cách mạng công nghiệp 4.0 vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam”, tác giả PGS.TS Trần Thị Vân Hoa (chủ biên); TSKH Phan Xuân Dũng với cuốn sách “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cuộc cách mạng của sự hội tụ và tiết kiệm; Hội thảo khoa học cấp Quốc gia “Nhu cầu nhân lực cho phát triển trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những đáp ứng của giáo dục đại học Việt Nam” do Văn phòng hội đồng Quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức năm 2018; Tác giả Nguyễn Đắc Hưng với cuốn sách chuyên khảo “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và vấn đề đặt ra với Việt Nam”; Gần đây nhất năm 2019, TS Phạm Thuyên đã xuất bản cuốn sách “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; Học viện Ngân hàng, Khoa Lý luận chính trị đã mở Hội thảo về “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam”.
Ngoài sách tham khảo, chuyên khảo, hội thảo ra, trong những năm gần đây đã có rất nhiều những bài báo viết về cách mạng công nghiệp lần thứ tư xoay quanh những vấn đề: nhận diện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc trưng, bản chất, biểu hiện và những tác động của nó đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Tác giả Nguyễn Chí Hiếu, Phạm Văn Biển với bài viết “Cuộc cách magnj công nghiệp 4.0 tại Đức: Những thành tựu và thách thức”, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu số 5 (212) năm 2018. Tác giả Nguyễn Chí Trường với bài viết “Cuộc cách Cách mạng công nghiệp 4.0: cơ hội, thách thức và giải pháp hai tốc độ cho giáo dục nghề nghiệp”.Tác giả Nguyễn Thị Thu Hồng có bài viết “Cơ hội và thách thức với lao động nữ trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đăng trên Tạp chí Lao động và Công đoàn số 638 tháng 3 năm 2018.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân
Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và Công đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2001; Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, TS Đặng Ngọc Tùng (Chủ biên), Nxb. Lao động, Hà nội, 2008; Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, (Sách tham khảo), Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010;Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 -2020, TS. Đặng Ngọc Tùng (chủ biên), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2010; Trí thức hóa công nhân Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, TS. Bùi Thị Kim Hậu, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012; Tác giả Nguyễn Thị Hường có Luận án Tiến sĩ Triết học “Giai cấp công nhân - giai cấp tiên phong trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”; Tác giả Phạm Văn Giang có Luận án Tiến sĩ Triết học “Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế hiện nay”.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân
Cuốn sách Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các tác giả Nguyễn Đắc Hưng, Phùng Thế Đông;Tác giả Nguyễn Đình Bắc với bài viết “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta trước tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đăng trên Tạp chí Cộng sản số 906 tháng 4 năm 2018. Tác giả Nguyễn An Ninh với bài viết “Thực hiện nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí cộng sản điện tử; Bài viết “Đặc trưng và tác động kinh tế - xã hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của Nguyễn Văn Thành đăng trên Tạp chí Xã hội học, số 1 (141) năm 2018. Tác giả Lê Thị Chiên với bài viết “Vai trò của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đăng trên Tạp chí Triết học số 2 (231) tháng 2 năm 2018; Tác giả Lê Tuấn Ngọc, Hoàng Thị Kim Oanh với bài viết “Cách mạng công nghiệp 4.0 và những thách thức đặt ra đối với lao động Việt Nam”. Tác giả Chu Ngọc Anh với hai bài viết: “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: cơ hội và thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam”; “Phát triển nhân lực khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”; Tác giả Nguyễn An Ninh và Tô Văn Sơn với bài viết “Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến công nhân, lao động các nước công nghiệp phát triển” đăng trên Tạp chí Lao động và Công đoàn số 637.
1.3. Khái quát những kết quả có giá trị từ các công trình đã nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ trong quá trình thực hiện luận án
1.3.1.Đánh giá khái quát những kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu trình bày ở trên đã đi vào giải quyết rất rõ các vấn đề lý luận liên quan đến giai cấp công nhân và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đặc biệt các tác giả đã khẳng định, dù là trong thời đại nào đi nữa, thì giai cấp công nhân vẫn là giai cấp quyết định sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu đó đã phân tích được những tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến các nước tư bản phát triển… phân tích được những cơ hội và thách thức của cuộc cách mạng này đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam.
Thứ ba, những công trình nghiên cứu trên đã đưa ra được những quan điểm và hệ thống giải pháp chủ yếu, để Việt Nam có thể nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, sẵn sàng đón nhận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tuy vậy,các công trình nghiên cứu trước đây về giai cấp công nhân đều chủ yếu bàn về trí thức hóa công nhân, về nguồn nhân lực chất lượng cao... trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Tính đến thời điểm này, công trình nghiên cứu về tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đến bản thân giai cấp công nhân nói chung và giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng còn rất khiêm tốn. Do vậy, đây là vấn đề mới, cần tiếp tục nghiên cứu.
1.3.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ
Thứ nhất, luận án sẽ tập trung làm rõ quan niệm mới về giai cấp công nhân, về đặc điểm của giai cấp công nhân ngày nay; Thứ hai, để chỉ ra những tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam, tác giả dựa trên những phân tích từ quan niệm, bản chất và đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Thứ ba, trên cơ sở đó, nội dung trọng tâm của luận án là chỉ ra được những biểu hiện tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam: đến số lượng, cơ cấu, chất lượng (bao gồm trình độ làm chủ khoa học công nghệ và ý thức giai cấp). Qua đó, tác giả đi vào phân tích những vấn đề đặt ra từ tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam. Đây chính là đóng góp lớn nhất của luận án khi đi sâu vào nghiên cứu đề tài này; Thứ tư, chỉ ra được những biểu hiện tác động, những vấn đề đặt ra từ tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; và cuối cùng, tác giả đề xuất một số quan điểm, giải pháp thúc đẩy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
Từ trước cho đến nay, giới nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng và những nhà lý luận chính trị - xã hội nói chung, đều rất quan tâm đến đề tài về giai cấp công nhân. Bởi giai cấp công nhân, cùng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là học thuyết nền tảng, trung tâm của bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong thực tiễn, giai cấp công nhân Việt Nam đã chứng minh được vị trí, vai trò của mình. Kể từ năm 2011, thuật ngữ “công nghiệp 4.0” được chính thức nhắc đến tại Đức, thì cách mạng công nghiệp lần thứ tư trở thành chủ đề được nhắc đền với tần suất rất lớn, được các hội thảo lớn, nhỏ trong nước và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, thảo luận.
Những nghiên cứu về giai cấp công nhân, về cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đề cập đến nhiều khía cạnh quan trọng với những góc tiếp cận, cũng như những mức độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay các công trình bàn về tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến bản thân giai cấp công nhân Việt Nam còn rất khiêm tốn và ít ỏi. Vì vậy, đề tài tác giả lựa chọn không trùng với bất kỳ công trình khoa học nào đã được công bố.
Chương 2
TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
ĐẾN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. Quan niệm, đặc điểm của giai cấp công nhân và cách mạng công nghiệp lần thứ tư
2.1.1. Quan niệm, đặc điểm của giai cấp công nhân
Quan niệm về giai cấp công nhân
Trong quá trình luận giải cho sự hình thành cũng như sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều từ đồng nghĩa để nói về giai cấp này như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản công nghiệp, giai cấp công nhân đại cơ khí, giai cấp công nhân, giai cấp công nhân hiện đại, công nhân công xưởng, công nhân thành thị…
V.I.Lênin cũng dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp công nhân như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản thế kỷ XX, giai cấp công nhân… Tuy nhiên, khái niệm “giai cấp công nhân” cần phải được xem xét trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, khi xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế mà đặc biệt là khi cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra, khái niệm giai cấp công nhân đã có sự thay đổi và được bổ sung những đặc điểm mới.Giai cấp công nhân không chỉ bó hẹp với hình ảnh những công nhân nhà máy, công xưởng… đứng vận hành máy móc, những công nhân trong khu công nghiệp, khu chế xuất nữa… mà giai cấp công nhân hiện nay có thể chia như sau:
Một là, công nhân lao động giản đơn: tức là công nhân chưa qua đào tạo, chủ yếu làm việc dựa vào sức bắp của chân tay. Đội ngũ công nhân này đang có nguy cơ biến mất trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Hai là, công nhân kỹ thuật (hay còn gọi là công nhân cổ xanh). Đội ngũ công nhân này hiện nay vẫn chiếm đại bộ phận công nhân ở các nước và vẫn là đội ngũ chủ lực trực tiếp vận hành sản xuất, thông qua các máy móc thiết bị công nghiệp ngày càng hiện đại; Ba là, kỹ thuật viên và kỹ sư thực hành (hay còn gọi là công nhân cổ vàng) trực tiếp vận hành các quy trình sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại. Đội ngũ công nhân này cần phân biệt với đội ngũ những người trí thức (đó là những người chủ yếu là nghiên cứu, phát minh, giảng dạy… về lý thuyết kỹ thuật, công nghệ thông tin…); Bốn là, công nhân tri thức (hay còn gọi là “Công nhân – Trí thức”, công nhân cổ trắng, cổ cồn, cổ hồng). Họ là những người công nhân vừa trực tiếp tham gia vận hành quy trình sản xuất trực tiếp, hay vừa sản xuất vừa tham gia quản lý ở các doanh nghiệp hiện đại, vừa tham gia nghiên cứu, giảng dậy, phát minh ra những lý thuyết khoa học và công nghệ hiện đại tại các viện, các trường đại học…; Năm là, công nhân dịch vụ: trực tiếp tham gia vận hành quy trình sản xuất công nghiệp dịch vụ ngày càng hiện đại trong nền kinh tế tri thức hiện nay như dịch vụ: Thương mại, Ngân hàng, Tài chính, Khoa học và công nghệ, Du lịch, Môi trường…
Quan niệm về giai cấp công nhân Việt Nam
Trong nghị quyết chuyên đề về giai cấp công nhân mới nhất, Đảng ta đưa ra khái niệm về giai cấp công nhân như sau: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”; “Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nóng cốt trong khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.”
2.1.2. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Khái niệm, bản chất, đặc trưng
Xét về mặt bản chất, cách mạng công nghiệp lần thứ tư so với ba cuộc cách mạng công nghiệp trước không có gì thay đổi, vẫn là cuộc cách mạng dựa trên những phát minh của khoa học, công nghệ ứng dụng vào trong sản xuất xã hội để tạo nên những sự chuyển biến, những đột phá, phát triển không ngừng. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vẫn là cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất dẫn đến những thay đổi trong quan hệ sản xuất hiện tồn.
Để nhận diện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chúng ta cần định hình rõ những biểu hiện và đặc trưng của cuộc cách mạng này:
Một là, đây là cuộc cách mạng dựa trên nền tảng của công nghệ thông tin, internet và sự hội tụ của tất cả các công nghệ như vật lý, hóa học, sinh học… nhưng ở một tầm cao mới.
Hai là, các xu hướng công nghệ lớn trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Vật chất (với bốn biểu hiện là xe tự hành, công nghệ in 3D, Robốt tiên tiến và Vật liệu mới); Kỹ thuật số (với internet kết nối vạn vật); Sinh học (công nghệ gen, sinh học tổng hợp…).
Ba là, xét về phạm vi và tốc độ phát triển, có thể nói là chưa có tiền lệ trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Bốn là, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư dự đoán sẽ làm thay đổi toàn bộ nền kinh tế thế giới và đang dần tạo nên một phương thức sản xuất mới, đó chính là một nền kinh tế số, kinh tế chia sẻ.
Tóm lại, với những biểu hiện, đặc trưng dễ dàng nhận thấy đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thực sự hiện diện và tác động đến tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế thế giới, tác động cả đến chính trị thế giới và đặc biệt là tác động đến giai cấp công nhân, người lao động, những người trực tiếp vận hành lực lượng sản xuất hiện đại hiện nay.
2.2. Khái niệm và biểu hiện tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân
2.2.1. Khái niệm “tác động”
Tác động luôn luôn là một quá trình qua lại giữa các sự vật, hiện tượng, theo từ điển triết học, tác động qua lại đó là: Quá trình các vật thể ảnh hưởng lẫn nhau, là một hình thức vận động, phát triển chung nhất, phổ biến nhất. Sự tác động qua lại quy định sự tồn tại và tổ chức kết cấu của mọi hệ thống vật chất, quy định sự liên kết của nó cùng với những vật thể khác vào một hệ thống lớn hơn, quy định các tính chất của tất cả các vật thể, các quá trình và hiện tượng.
Theo từ điển tiếng Việt, tác động là “Làm cho một đối tượng nào đó có những biến đổi nhất định”. Tóm lại, khi chịu sự tác động nào đó, dù là tác động bên trong hay tác động bên ngoài, thì cũng đều dẫn đến những sự biến đổi.
2.2.2. Biểu hiện tác động
Mặc dùcuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mới chỉ đang diễn ra, chúng ta chưa thể dự đoán một cách chính xác những tác động của nó đối với xã hội nói chung và với giai cấp công nhân nói riêng, nhưng với những biểu hiện như hiện nay của cách mạng công nghiệp lần thứ tư thì có thể thấy một số tác động chính của của cuộc cách mạng này đến sự phát triển của giai cấp công nhân như sau:
Một là, tác động đến số lượng, cơ cấu giai cấp công nhân
Về số lượng: Dù ở thời điểm hiện tại hay tương lai, rõ ràng nhu cầu về lao động là không bao giờ hết, bởi những ngành nghề cũ mất đi sẽ được thay thế bởi những ngành nghề mới.Tức là lực lượng lao động trên thế giới có xu hướng gia tăng không đồng đều, nhưng nhìn chung là số lượng vẫn tăng.
Về cơ cấu:
Cơ cấu theo thành phần kinh tế: Nếu như trước đây, công nhân lao động chủ yếu tập trung ở khu vực công, ở các nhà máy, xí nghiệp thì hiện nay với đa dạng các thành phần kinh tế khác nhau, giai cấp công nhân đã có mặt ở hầu hết các thành phần kinh tế.
Cơ cấu theo ngành nghề: Các ngành kinh tế trước đây như sản xuất công nghiệp truyền thống không còn chiếm vị trí thống lĩnh trong nền kinh tế nữa, mà thay vào đó sẽ là sự lên ngôi của những ngành công nghiệp dịch vụ, công nghiệp không khói. Điều này, dẫn đến sự biến đổi trong cơ cấu công nhân, lao động các nước. Sự chuyển dịch trong cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghệ số đòi hỏi công nhân,lao động trên thế giới phải chuyển dịch, sự biến đổi này theo chiều hướng tích cực: có sự biến đổi từ công nhân cổ xanh, công nhân truyền thống sang công nhân cổ trắng, cổ hồng, công nhân tri thức.
Sự chuyển dịch về cơ cấu vùng, lãnh thổ của công nhân: Do tính chất xã hội hóa của lao động công nghiệp trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã có sự thay đổi, người lao động thế giới có thể đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau mà không cần đến công sở. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đang tạo cơ hội cho rất nhiều người lao động trên thế giới được tự do làm việc, sáng tạo và cống hiến, cho phép các doanh nghiệp tuyển dụng được lực lượng lao động trên toàn cầu. Điều này đang tác động tích cực đến bộ phận công nhân tri thức trên thế giới, nhưng ngược lại đang tác động tiêu cực đến bộ phận công nhân truyền thống hiện nay.
Cơ cấu công nhân lao động theo giới: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những yêu cầu, đòi hỏi về trình độ, về kỹ năng và khả năng sáng tạo của con người, không phân biệt giới tính, độ tuổi… những công việc mới liên quan đến công nghệ thông tin, phát triển ứng dụng phần mềm, thiết kế đồ họa, trí tuệ nhân tọa, kỹ thuật in 3D… không đòi hỏi sức bắp, mà yêu cầu sự nhẫn nại, tỉ mỉ nhiều hơn… đây được xem là cơ hội để công nhân lao động là nữ giới có được công việc làm tốt hơn, cải thiện mức sống.
Hai là, tác động đến trình độ của GCCN (học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng làm chủ kiến thức khoa học, công nghệ…)
Sự xuất hiện của những ngành nghề mới liên quan đến những ứng dụng khoa học, công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi chất lượng giai cấp công nhân phải tăng lên. Không chỉ là trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giai cấp công nhân 4.0 cần chuẩn bị cho mình cả những kỹ năng mềm, bởi đặc tính của những ngành nghề mới đòi hỏi sự sáng tạo, khả năng giao tiếp, thuyết trình, ngay cả những kỹ năng ngoại giao…
Kỹ năng trong công việc bao gồm bốn nhóm kỹ năng cơ bản sau: Một là, kỹ năng nghề nghiệp hay còn gọi là năng lực nghề nghiệp. Hai là, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang gia tăng nhu cầu về các kỹ năng thiết yếu của con người, thường được gọi là kỹ năng mềm. Ba là, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra những cơ hội việc làm mới, những công việc đòi hỏi kỹ năng nghiệp vụ cao. Bốn là, các ngành nghề mới mà cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra còn đòi hỏi con người phải có kỹ năng kinh doanh.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đang tác động đến chất lượng cuộc sống của một bộ phận giai cấp công nhân. Quan trọng hơn, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động trực tiếp đến ý thức giai cấp của một bộ phận công nhân lao động trên thế giới; đồng thời, cũng đang tác động theo hướng tạo điều kiện, cơ hội dễ dàng để giai cấp công nhân thực hiện chủ nghĩa quốc tế của mình trong thời đại hiện nay.
Tiểu kết chương 2
Bằng thế giới quan khoa học và cách mạng của mình, C.Mác và Ph. Ăngghen đã luận giải quá trình ra đời của giai cấp công nhân thế giới: Theo đó, có thể thấy giai cấp công nhân ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và phát triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Vì vậy, xét về mặt bản chất, họ vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của đại công nghiệp, luôn giữ vị trí quan trọng và vai trò không thể thay thế trong lực lượng sản xuất hiện đại.
Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (khoản 1, điều 4, Hiến pháp 2013). Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn mang trong mình những đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang bao trùm thế giới, và tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, từ sản xuất đến tiêu dùng theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực, thì giai cấp công nhân cũng không nằm ngoài những tác động này. Tác động tích cực: Hiện tại và trong tương lai nhiều ngành nghề mới ra đời, mang đến cơ hội để giai cấp công nhân có được việc làm tốt hơn, mức thu nhập cao hơn và nâng cao chất lượng cuộc sống… Cách mạng công nghiệp lần thứ cũng tác động và mở ra cơ hội cho giai cấp công nhân được học tập, nâng cao trình độ, qua đó gia tăng bộ phận công nhân tri thức, củng cố ngày càng vững chắc địa vị và bản chất giai cấp công nhân. Tác động tiêu cực: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư khiến cho cơ cấu nền kinh tế các nước có sự chuyển dịch nhanh chóng, nhiều ngành công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều công nhân lao động có nguy cơ mất đi, hoặc ngày càng giảm nhu cầu lao động do tự động hóa và rô bốt được ứng dụng hàng loạt… nhiều công nhân có nguy cơ rơi vào tình cảnh thất nghiệp, kéo theo đó là đời sống bấp bênh, nghèo khó, sự suy giảm niềm tin, lập trường giai cấp, hơn hết là sự thờ ơ với chính trị, địa vị chính trị và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Chương 3
TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ĐẾN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM – NHỮNG BIỂU HIỆN CHỦ YẾU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Những biểu hiện tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam
3.1.1. Biểu hiện tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến số lượng, cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam
Một là, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, số lượng giai cấp công nhân Việt Nam vẫn không ngừng tăng lên.
Hai là, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đang tác động tạo ra những biến đổi trong cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam.
Về cơ cấu theo thành phần kinh tế: Doanh nghiệp nhà nước còn chưa có sự nhạy bén với thị trường, với sự phát triển của khoa học công nghệ, cùng với kinh nghiệm quản lý chưa cao, chưa hiệu quả, nên đang để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cũng như các doanh nghiệp ngoài nhà nước hiện nay vượt lên.
Về cơ cấu ngành nghề: Cơ cấu kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi theo hướng ưu tiên các ngành có hàm lượng tri thức cao, hướng đến nền kinh tế số, công nghệ số. Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế đó đã tác động trực tiếp đến cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam, nhu cầu về nguồn nhân lực đang tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Công nhân trong các ngành này tăng lên đáng kể, và giảm ở khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản.
Cơ cấu công nhân theo giới: Những ngành nghề mới đòi hỏi các kỹ năng thành thục như kỹ năng tư vấn, giao tiếp, làm việc nhóm thông qua mạng internet toàn cầu... những công việc đòi hỏi sự khéo léo, và đặc biệt đề cao tri thức, năng lực như: công nghệ thông tin, các ngành công nghiệp dịch vụ, công nông nghiệp chất lượng cao… chính vì thế, số công nhân nữ đang được sử dụng trong các loại hình doanh nghiệp ngày càng tăng lên. Hơn nữa, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động đến nền kinh tế Việt Nam, làm phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ, công nghiệp phụ trợ mới như: nhà hàng, khách sạn, ngân hàng… đây là các khu vực tập trung công nhân nữ rất nhiều.
Về cơ cấu công nhân theo vùng: Với những chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều trung tâm công nghiệp mới nổi lên, tập trung ở một số tỉnh có địa hình giao thông đi lại thuận tiện, gần khu đô thị lớn. Ngược lại, ở những vùng địa hình phức tạp hơn như: vùng núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo… tập trung đồng bào dân tộc ít người sinh sống, kinh tế khó khăn, còn tương đối chậm phát triển, việc thu hút đầu tư là rất khó khăn. Điều này, đang tạo nên sự phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều ở Việt Nam, và tạo nên sự mất cân bằng trong cơ cấu giai cấp công nhân giữa các vùng miền.
3.1.2. Biểu hiện tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến đến trình độ (học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng làm chủ kiến thức khoa học - công nghệ…) của giai cấp công nhân Việt Nam
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động đến trình độ chuyên môn, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp của giai cấp công nhân theo cả hai hướng: tích cực và tiêu cực. Trước yêu cầu và đòi hỏi mới, giai cấp công nhân Việt Nam buộc phải nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, quan trọng hơn điều kiện cơ chế, chính sách, vật chất đang rất thuận lợi, từ đó làm đội ngũ công nhân tri thức ngày càng phát triển, gia tăng. Ngược lại, với thực trạng trình độ chuyên môn, học vấn của giai cấp công nhân Việt Nam như hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động khiến cho một bộ phận công nhân Việt Nam đứng trước nguy cơ mất việc làm, đối diện với cuộc sống khó khăn về vật chất, “nhạt Đảng, khô đoàn, xa rời chính trị”.
3.1.3. Biểu hiện tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến phẩm chất chính trị của giai cấp công nhân (ý thức giai cấp, ý thức giác ngộ về sứ mệnh lịch sử…)của giai cấp công nhân Việt Nam
Sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, kinh tế thị trường… đã tác động, làm biến đổi ngay trong ý thức, tư tưởng của từng người công nhân. Một bộ phận công nhân, chỉ mải mê lao động sản xuất, thờ ơ với chính trị và không quan tâm đến địa vị giai cấp mình. Một bộ phận công nhân trẻ tuổi, chịu ảnh hưởng bởi mặt trái của khoa học, công nghệ, của kinh tế thị trường, học đòi theo văn hóa phương Tây, đề cao chủ nghĩa cá nhân, thực dụng. Một bộ phận khác, mất lập trường tư tưởng, hoang mang, dao động, phai nhạt lý tưởng cách mạng, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngược lại, vẫn có một bộ phận công nhân Việt Nam, sống có lý tưởng và có tri thức, vẫn luôn tin tưởng vào đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và đang tự học tập, nâng cao trình độ cũng như năng lực bản thân; tích cực tìm hiểu yêu cầu của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường để phát triển.
3.2 Một số vấn đề đặt ra từ tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
3.2.1. Số lượng công nhân chưa qua đào tạo ở Việt Nam còn rất nhiều trong khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đòi hỏi chủ yếu là công nhân tri thức
Trong cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay chủ yếu là lao động trẻ, trình độ thấp (mới chỉ có hơn 20% được đào tạo cơ bản), giá rẻ… điều này cho thấy, chất lượng của đội ngũ công nhân Việt Nam nhìn chung còn thấp, khi có gần 77% lực lượng lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Hơn nữa, trong số hơn 20% lao động được đào tạo cơ bản này, vẫn còn những bất cập, bất cập trong cơ cấu đào tạo không hợp lý gây ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”, và lực lượng công nhân kỹ thuật bậc cao của chúng ta hiện nay cũng rất khan hiếm.
Trong khi đó,cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi phải có một nền kinh tế tri thức phát triển, kết tinh trong mỗi sản phẩm là tri thức và sự sáng tạo cao của con người. Đây là vấn đề đặt ra, không chỉ cho bản thân giai cấp công nhân nói riêng, mà là vấn đề đặt ra cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Bởi lẽ, điều này ảnh hưởng tới tốc độ phát triển của nền kinh tế, xã hội; đồng thời, ảnh hưởng cả tới con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3.2.2. Công nhân tri thức ở Việt Nam còn thiếu những kỹ năng mềm trong khi đây lại là đòi hỏi chính mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra
Trong xã hội mà công nghệ và tri thức đang chiếm lĩnh hiện nay, thì trình độ học vấn, tay nghề chỉ mới là một yêu cầu cần cho công việc, trong khi yêu cầu đủ để trở thành một người công nhân tri thức đó chính là kỹ năng số.
Tuy nhiên, giai cấp công nhân Việt Nam lại đang thiếu hụt những kỹ năng này. Theo nghiên cứu của mới đây của Viện Nghiên cứu Giáo dục Việt Nam, có đến 83% sinh viên ra trường thiếu kỹ năng mềm, trong số đó 37% sinh viên ra trường không kiếm được việc làm do thiếu những kỹ năng cần thiết mà các doanh nghiệp yêu cầu. Điều đó cho thấy, đội ngũ công nhân tri thức cung cấp cho thị trường lao động Việt Nam hiện nay, đang thiếu nghiêm trọng những kỹ năng mềm mà sự phát triển của khoa học, công nghệ đang đòi hỏi.
Hơn thế nữa, một bộ phận lớn công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân, ngoài khả năng cần cù, chịu khó, tận tâm với công việc… họ không có bất cứ một kỹ năng mềm nào mà cách mạng công nghiệp lần thứ tư yêu cầu. Đây thực sự là bài toán khó giải cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang có chủ trương chuyển đổi sang nền kinh tế số, công nghệ số phát triển kinh tế tri thức và chủ động, nắm bắt cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo đà cho nền kinh tế Việt Nam phát triển, xây dựng cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng vững chắc cho chủ nghĩa xã hội.
3.2.3.Quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế số, công nghệ số dẫn tới sự ra đời của nhiều ngành nghề mới chứa hàm lượng tri thức cao, một mặt, là môi trường tốt để giai cấp công nhân phát triển. Mặt khác, nó lại đang và sẽ tạo ra tình trạng bất bình đẳng về cơ hội việc làm, về thu nhập… kéo theo sự suy giảm niềm tin, lý tưởng cách mạng trong nội bộ giai cấp công nhân.
Thứ nhất, trong cuộc cách mạng này, người công nhân hoàn toàn có cơ hội có được công việc làm cao hơn, với mức thu nhập tốt hơn nhiều so với trước đây.
Kinh tế số, công nghệ số không những thúc đẩy việc làm trong các ngành công nghệ thông tin, mà quan trọng hơn, còn thúc đẩy việc làm trong các ngành sử dụng công nghệ thông tin khi số lượng các doanh nghiệp và người lao động tự do áp dụng công nghệ mới tăng lên. Điều này, mang lại cơ hội rất lớn cho giai cấp công nhân được tiếp cận những việc làm mới, tốt hơn, có thu nhập cao hơn những công việc gia công truyền thống trước đây.
Thứ hai, khoa học, công nghệ phát triển cũng đang mang lại cho người công nhân có thời gian linh hoạt, có thể phát huy hết khả năng sáng tạo và thu nhập cao.
Hiện nay, các chuyên gia cảnh báo, khi tự động hóa thay thế con người trong toàn bộ nền kinh tế, một đội ngũ công nhân sẽ bị dư thừa. Điều đó có thể dẫn đến khoảng cách giữa công nghệ và tri thức ngày càng xích lại gần nhau, ngược lại khoảng cách giữa có việc làm và mất việc làm sẽ ngày càng được nới rộng, dẫn đến phân hóa xã hội sẽ sâu sắc hơn.
Một bộ phận công nhân, chủ yếu là công nhân cổ xanh, công nhân lao động giản đơn sẽ bị đào thải hoặc phải làm ở những vị trí, những khu vực không đòi hỏi chuyên môn, nghiệp vụ, với mức lương thấp hơn rất nhiều so với đội ngũ công nhân tri thức, chính vì thế đời sống của bộ phận công nhân này sẽ trở nên nghèo khổ và bấp bênh.
Đối lập với viễn cảnh đó, những công nhân cổ cồn, cổ trắng những công nhân kỹ thuật cao sẽ có nhiều cơ hội để nhận được những công việc tốt hơn trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây chính là lý do mà hiện nay và trong tương lai không xa, khoảng cách giàu nghèo trong nội bộ giai cấp công nhân sẽ ngày càng nới rộng hơn.
3.2.4. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi phải có sự liên minh, liên kết, đặc biệt là liên minh nòng cốt giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức để phát triển kinh tế nhưng khối liên minh này hiện nay chưa được phát huy hiệu quả
Một đặc điểm của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đó là sự liên kết, hội tụ của nhiều ngành nghề để cho ra đời những sản phẩm và giải pháp công nghệ tối ưu. Sự liên kết của công nghệ đòi hỏi sự liên kết của giai cấp công nhân; liên minh, liên kết để thực hiện những nhiệm vụ chính trị, đồng thời để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống trong một thế giới mà công nghệ làm chủ đạo như hiện nay.
3.2.5. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra rất nhanh đòi hỏi ngày càng nhiều công nhân tri thức, nhưng công tác quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển giai cấp công nhân vẫn còn chậm, thiếu và chưa đồng bộ.
Qua gần 35 năm đổi mới và 14 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu khóa XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam phát triển nhanh và có những chuyển biến tích cực về chất lượng. Số lượng giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng tăng lên, trình độ tay nghề và kỹ năng mềm ngày càng được cải thiện… ý thức giai cấp, ý thức chính trị được củng cố.
Tuy nhiên “…trong hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức có nhiều vấn đề mới nảy sinh về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân, sự quan tâm lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân của Đảng chưa đúng mức, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân, chưa theo kịp yêu cầu của thời kỳ mới”. Điều này, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, hiện nay, khi cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra trên thế giới, ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta ngay từ đầu đã rất quan tâm và xác định đúng vị trí, vai trò của cuộc cách mạng này đối với sự phát triển kinh tế, đất nước.
Thứ hai, trong dự thảo văn kiện đại hội XIII mới đây nhất, Đảng ta khẳng định trong giai đoạn mới cần tập trung vào ba đột phá chiến lược sau: hạ tầng cơ sở, hoàn thiện thể chế, phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung là đòi hỏi đặt ra cho một nền kinh tế số, kinh tế tri thức hiện nay, trong tổng thể nguồn nhân lực ấy có giai cấp công nhân và đội ngũ công nhân tri thức. Mặc dù đã đặt mục tiêu và đưa ra những biện pháp cụ thể nhưng cho đến nay, Đảng ta vẫn chưa ra được nghị quyết chuyên đề về tiếp tục xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Tiểu kết chương 3
Mặc dù bước đầu hiện diện ở Việt Nam, nhưng có thể nói cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang kéo theo rất nhiều sự thay đổi, trong đó giai cấp công nhân Việt Nam sẽ buộc phải có nhiều thay đổi trong tương lai. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang có những tác động tiêu cực đến giai cấp công nhân Việt Nam như: Giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước tình trạng mất việc làm, phân tầng xã hội trong nội bộ giai cấp công nhân, công nghệ thông tin phát triển ở trình độ cao, an ninh phi truyền thống trở thành mối lo ngại của toàn xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia và giai cấp công nhân, dẫn đến một hệ lụy đó là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, mất dần bản chất giai cấp trong tư tưởng của một bộ phận công nhân, không chỉ là công nhân truyền thống, công nhân cổ xanh mà tình trạng này còn diễn ra trong cả đội ngũ công nhân tri thức.
Tuy nhiên, những tác động tiêu cực ấy vẫn hàm chứa trong nó những yếu tố tích cực; đó là: giai cấp công nhân Việt Nam hoàn toàn có thể có được những công việc làm tốt hơn, thu nhập cao hơn, và có nhiều sự lựa chọn công việc trong tương lai. Đặc biệt, họ sẽ thấy rõ hơn vị trí, vai trò của giai cấp mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Những tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam đang đặt ra một số vấn đề rất nóng bỏng, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp, kịp thời để giải quyết, tạo sự phát triển cho đội ngũ công nhân Việt Nam.
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ĐẾN GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Quan điểm thúc đẩy những tác động tích cực, ngăn ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam
4.1.1. Chú trọng chuyển đổi cơ cấu giai cấp công nhân hợp lý
Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam phải đi liền với chuyển dịch cơ cấu giai cấp công nhân theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này.
4.1.2. Tập trung củng cố, phát triển về phẩm chất chính trị cho giai cấp công nhân
Điều gì quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản? Đó chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đây là sự lựa chọn tự nhiên của lịch sử và đã được thực tiễn chứng minh. Chính vì vậy, củng cố phát triển tư tưởng chính trị cho giai cấp công nhân, là nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động và gây ra những biến đổi hết sức phức tạp trong xã hội, từ đó tác động đến nhận thức, tư tưởng của một bộ phận giai cấp công nhân.
4.1.3. Chú trọng phát triển khối liên minh công - nông - trí trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được xem là cuộc cách mạng của sự hội tụ và tiết kiệm, sự hội tụ của các công nghệ đỉnh cao đưa đến các giải pháp nhằm tiết kiệm nguồn nguyên nhiên liệu, tiết kiệm nguồn nhân lực, tiết kiệm thời gian, công sức... muốn phát triển trong một xã hội mà đặc trưng cơ bản là những sợi dây liên kết giữa thế giới thực và thế giới ảo, giữa thế giới số với thế giới con người, giai cấp công nhân phải gắn kết chặt chẽ với các giai cấp, tầng lớp khác, cụ thể chính là giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
4.1.4. Xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể phát triển đội ngũ công nhân tri thức trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Trong bối cảnh mới, tình hình mới, rất cần phải có một quan điểm cụ thể, rõ ràng về giai cấp công nhân trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Nội hàm cũng như ngoại diên phạm vi khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam nên chăng cần bổ sung và mở rộng so với khái niệm giai cấp công nhân đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương Sáu khóa X. Bởi những vấn đề nêu ra trong nghị quyết chuyên đề duy nhất về giai cấp công nhân tính từ khi đổi mới toàn diện đất nước Việt Nam đến nay có nhiều điểm đã cũ, không đủ cập nhật để đưa ra định hướng đúng đắn cho giai cấp công nhân hiện tại.
4.2. Một số giải pháp chủ yếu phát huy những tác động tích cực, ngăn ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giai cấp công nhân Việt Nam
4.2.1. Đổi mới nội dung, phương pháp và tăng cường các yếu tố sáng tạo trong giáo dục, đào tạo đáp ứng các yêu cầu mới về trình độ, kỹ năng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Thứ nhất, đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu;
Thứ hai, khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên nền tảng số;
Thứ ba, phát triển các hình thức liên kết giữa doanh nghiệp và cơ sở giáo dục, đào tạo;
Thứ tư, phát triển các hình thức kiên kết đào tạo quốc tế, để hình thành đội ngũ công nhân tri thức chuẩn quốc tế, công nhân toàn cầu;
Thứ năm, phát triển mạnh đào tạo nghề và hỗ trợ đào tạo kỹ năng cho chuyển đổi công việc;
Thứ sáu, hình thành mạng học tập mở ở Việt Nam.
4.2.2. Cùng với quá trình chuyển đổi số quốc gia cần kết hợp với quan tâm, nâng cao mức sống, bồi dưỡng và trau dồi lý tưởng cách mạng cho giai cấp công nhân
Thứ nhất, cần có các chính sách hỗ trợ giai cấp công nhân tìm việc làm mới, đồng thời hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đảm bảo cho giai cấp công nhân có thu nhập ổn định, có khả năng phòng ngừa, khắc phục và giảm thiểu rủi ro.
Thứ hai, đổi mới hình thức học tập và tuyên truyền chính trị, tư tưởng theo hướng tận dụng tối đa các thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại.
Muốn thông tin chính thống đến được với giai cấp công nhân nhanh nhất, cần phát huy tối đa vai trò của tổ chức Đảng, Đoàn thanh niên trong việc tuyên truyền, định hướng cho công nhân. Vì vậy, phải nâng cao trình độ về tri thức lẫn kỹ năng số cho các cán bộ làm công tác Đảng, Đoàn đặc biệt trong các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân.
4.2.3. Xây dựng các chính sách và chương trình hành động cụ thể để ứng dụng thành tựu của khoa học, công nghệ, khuyến khích, thúc đẩy các mô hình liên minh, liên kết phát triển
Nhà nước cần quan tâm định hướng cho doanh nghiệp, thu hút doanh nghiệp vào đầu tư ở những vùng tiềm năng, nắm được thế mạnh của từng vùng để từ đó khai thác, phát huy thế mạnh đó. Đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các chủ thể, để liên minh liên kết trên cơ sở hợp tác cùng có lợi, mới có thể phát triển các liên minh kinh tế bền vững, hiệu quả. Nhà nước cần đứng ra làm trung gian để giải quyết tốt mối quan hệ này trong giai đoạn hiện nay.
Không chỉ là liên minh chính trị, mà liên minh kinh tế hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Liên minh, liên kết để đảm bảo tính minh bạch của sản phẩm, tăng niềm tin của thị trường vào sản phẩm. Đồng thời, đưa thương hiệu, sản phẩm của nông sản, công nghiệp Việt Nam vươn ra thế giới. Đáp ứng yêu cầu của những thị trường khó tính nhất, mang lại thu nhập cao và ổn định cho cả người công nhân, nông dân, trí thức và doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả.
4.2.4. Sử dụng tối ưu các công cụ công nghệ hiện đại để khảo sát, điều tra thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề ra chủ trương, chính sách phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Đảng và Nhà nước bên cạnh việc tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng viễn thông hiện đại để chuyển sang nền kinh tế số, công nghệ số… thì cần có chiến lược phát triển giai cấp công nhân Việt Nam, từng bước trí thức hóa công nhân tới năm 2045, trong đó cần: Một là, xác định rõ trong cơ cấu kinh tế hiện nay, ngành nghề nào có nguy cơ mất đi hoặc cầu về công nhân lao động giảm, ngành nào có xu hướng phát triển với lượng cầu về công nhân tăng; Hai là, quy hoạch đội ngũ công nhân cho hiện tại và tương lai.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn xoay quanh giai cấp công nhân là vấn đề phức tạp, rất cần định hướng tư tưởng, và phương hướng phát triển. Do đó, cần xây dựng một chiến lược trí thức hóa công nhân từ nay đến năm 2045 cùng với chiến lược chủ động, làm chủ cách mạng công nghiệp lần thứ tư mà Đảng và Nhà nước đã đưa ra cuối năm 2019.
Tiểu kết chương 4
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang và sẽ tác động đến giai cấp công nhân Việt Nam theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Vì vậy, để hạn chế những tác động tiêu cực và phát huy cao nhất những tác động tích cực, cần quán triệt những quan điểm cơ bản sau: Một là, chú trọng chuyển đổi cơ cấu giai cấp công nhân hợp lý; hai là, tập trung củng cố, phát triển về phẩm chất chính trị cho giai cấp công nhân; ba là, chú trọng phát triển khối liên minh công - nông - trí trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; bốn là, xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể phát triển đội ngũ công nhân tri thức.
Từ những quan điểm nhất quán đó, cần triển khai kết hợp nhiều giải pháp, trong đó chú trọng đến bốn nhóm giải pháp chủ yếu sau: Đổi mới nội dung, phương pháp và tăng cường các yếu tố sáng tạo trong giáo dục, đào tạo đáp ứng các yêu cầu mới về trình độ, kỹ năng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Cùng với quá trình chuyển đổi số quốc gia cần kết hợp với quan tâm, nâng cao mức sống, bồi dưỡng và trau dồi lý tưởng cách mạng cho giai cấp công nhân; Cần có các chính sách và chương trình hành động cụ thể để ứng dụng thành tựu của khoa học, công nghệ, khuyến khích, thúc đẩy các mô hình liên minh, liên kết phát triển; Sử dụng tối ưu các công cụ công nghệ hiện đại để khảo sát, điều tra thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay trên cơ sở đó để đề ra chủ trương, chính sách phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Để phát triển giai cấp công nhân Việt Nam có trình độ tay nghề, kỹ năng số, vững vàng về tư tưởng chính trị, bản lĩnh giai cấp, cần thực hiện đồng bộ các quan điểm cơ bản và các nhóm giải pháp nêu trên.
KẾT LUẬN
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những nội dung và phát hiện nền tảng của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác – Lênin, đã đưa đến thế giới quan khoa học, cách mạng, làm kim chỉ nam cho giai cấp công nhân toàn thế giới giành được thắng lợi và bước đầu tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, giai cấp công nhân các nước vẫn không ngừng lớn mạnh. Cùng với bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi, giai cấp công nhân Việt Nam cũng đã có thêm nhiều những đặc điểm mới, và đang ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đã gần 35 năm, kể từ khi Việt Nam tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta đã và đang đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị đến ngoại giao. Thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân vẫn là giai cấp lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là động lực chủ yếu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
2. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh mẽ đối với nền kinh tế thế giới, Việt Nam ngay từ đầu đã quán triệt quan điểm cần chủ động, tích cực sẵn sàng đón nhận cuộc cách mạng này để tạo cơ hội đưa nền kinh tế bứt phá đi lên. Dưới tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cơ cấu kinh tế Việt Nam đang có sự chuyển dịch, đồng thời với sự chuyển dịch ấy là sự biến đổi của giai cấp công nhân.
3. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động làm giai cấp công nhân Việt Nam biến đổi nhanh cả về số lượng và chất lượng. Quá trình tác động đó diễn ra theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đó là quá trình đan xen mà trong thời cơ có thách thức, đôi khi thách thức lại chính là thời cơ cho giai cấp công nhân Việt Nam phát triển.
4. Trên cơ sở phân tích những biểu hiện tác động bước đầu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với giai cấp công nhân Việt Nam, luận án đã chỉ ra những vấn đề đặt ra cần giải quyết như sau: Số lượng công nhân chưa qua đào tạo ở Việt Nam còn rất nhiều trong khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đòi hỏi chủ yếu là công nhân tri thức; Công nhân tri thức ở Việt Nam còn thiếu những kỹ năng mềm trong khi đây lại là đòi hỏi chính mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra; Quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế số, công nghệ số dẫn tới sự ra đời của nhiều ngành nghề mới chứa hàm lượng tri thức cao, một mặt, là môi trường tốt để giai cấp công nhân phát triển. Mặt khác, nó lại đang và sẽ tạo ra tình trạng bất bình đẳng về cơ hội việc làm, về thu nhập… kéo theo sự suy giảm niềm tin, lý tưởng cách mạng trong nội bộ giai cấp công nhân; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi phải có sự liên minh, liên kết, đặc biệt là liên minh nòng cốt giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức để phát triển kinh tế nhưng khối liên minh này hiện nay chưa được phát huy hiệu quả; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra rất nhanh đòi hỏi ngày càng nhiều công nhân tri thức nhưng công tác quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển giai cấp công nhân vẫn còn chậm, thiếu và chưa đồng bộ.
5. Để giải quyết những vấn đề đặt ra, hạn chế những tác động tiêu cực và phát huy những tác động tích cực mà cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, luận án đưa ra những quan điểm, định hướng như sau: Chú trọng chuyển đổi cơ cấu giai cấp công nhân hợp lý; tập trung củng cố, phát triển về phẩm chất chính trị cho giai cấp công nhân; chú trọng phát triển khối liên minh công - nông - trí trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể phát triển đội ngũ công nhân tri thức.
6. Trên cơ sở những quan điểm nhất quán đó, luận án chỉ ra bốn nhóm giải pháp chủ yếu cần thực hiện đồng bộ trong thời gian tới đó là:
1- Đổi mới nội dung, phương pháp và tăng cường các yếu tố sáng tạo trong giáo dục, đào tạo đáp ứng các yêu cầu mới về trình độ, kỹ năng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; 2- Cùng với quá trình chuyển đổi số quốc gia cần kết hợp với quan tâm, nâng cao mức sống, bồi dưỡng và trau dồi lý tưởng cách mạng cho giai cấp công nhân; 3- Cần có các chính sách và chương trình hành động cụ thể để ứng dụng thành tựu của khoa học, công nghệ, khuyến khích, thúc đẩy các mô hình liên minh, liên kết phát triển; 4- Sử dụng tối ưu các công cụ công nghệ hiện đại để khảo sát, điều tra thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay trên cơ sở đó để đề ra chủ trương, chính sách phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư;
Các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử luôn mang đến cơ hội cùng những thách thức không nhỏ cho nền kinh tế thế giới, nhưng quan trọng cuối cùng nền kinh tế thế giới đã và đang ngày càng phát triển, với những đột phá không ngờ trên nhiều lĩnh vực. Sự phát triển của khoa học, công nghệ luôn mang đến những biến đổi thần kỳ,nếu biết tận dụng, phát huy những tác động tích cực mà cuộc cách mạng này mang tới thì đây sẽ là cơ hội cũng như điều kiện để giai cấp công nhân Việt Nam phát triển, giữ vững bản chất giai cấp, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tác giả: ussh
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn